1. App vay tiền được hiểu như thế nào?
Trong thực tế, hiện tại chưa có quy định chính thức trong Luật Các tổ chức tín dụng 2010 (sửa đổi 2017) và các văn bản hướng dẫn liên quan về hoạt động vay tiền qua ứng dụng trực tuyến. Do đó, vay tiền qua ứng dụng có thể được coi là một hình thức vay tiền thông qua hợp đồng vay tài sản, theo như quy định tại Điều 463 trong Bộ luật Dân sự 2015. Quá trình ký kết hợp đồng vay diễn ra thông qua các ứng dụng vay tiền trực tuyến, đóng vai trò là công cụ giao dịch giữa các bên.
Ứng dụng vay tiền trực tuyến (hay còn gọi là app vay tiền online) đích thực là một công cụ hiệu quả cho vay tín chấp, giúp người vay tiếp cận các nguồn tài chính mà không cần phải đặt cọc bằng tài sản. Đặc điểm nổi bật của hình thức này là việc cho vay được xác định dựa trên sự đáng tin cậy của người vay, dựa trên thu nhập và khả năng thanh toán nợ của họ. Mô hình này giúp thúc đẩy quá trình cho vay tiền trở nên linh hoạt hơn, tiện lợi hơn và không yêu cầu các thủ tục phức tạp như truyền thống. Nhờ đó, người vay có cơ hội tiếp cận nguồn tài chính để đáp ứng nhanh chóng và linh hoạt với nhu cầu tài chính của mình, trong khi người cho vay cũng có khả năng tăng cường điểm uy tín và mở rộng dịch vụ cho vay đến những đối tượng khách hàng tiềm năng.
2. App vay tiền thu lãi 8%/ tháng có phải cho vay nặng lãi không?
Theo quy định tại Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về lãi suất cho vay, cụ thể:
– Lãi suất vay do các bên thỏa thuận:
+ Trong trường hợp các bên đạt thỏa thuận về lãi suất, lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20% mỗi năm của số tiền vay, trừ khi có quy định khác trong luật liên quan. Cơ quan quyền lực có thẩm quyền, dựa trên tình hình thực tế và theo đề xuất của Chính phủ, Ủy ban thường vụ Quốc hội, có quyền điều chỉnh mức lãi suất nói trên và báo cáo cho Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.
+ Nếu lãi suất theo thỏa thuận vượt quá mức lãi suất giới hạn được quy định tại điều này, thì phần lãi suất vượt quá sẽ không có hiệu lực.
– Trường hợp các bên đạt thỏa thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất và có tranh chấp về lãi suất, thì lãi suất sẽ được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 của Điều này, vào thời điểm trả nợ.
Tóm lại, Điều 468 của Bộ luật Dân sự 2015 quy định về lãi suất cho vay, cho phép các bên tự do thỏa thuận lãi suất, nhưng có một giới hạn tối đa là 20% mỗi năm. Nếu lãi suất vượt quá giới hạn này, phần lãi suất vượt quá sẽ không được công nhận. Trong trường hợp không có thỏa thuận rõ ràng về lãi suất hoặc có tranh chấp về lãi suất, mức lãi suất được xác định là 50% của giới hạn quy định trên vào thời điểm trả nợ. Theo đó, có thể hiểu rằng, mức lãi suất đúng theo quy định là 20%/ 1 năm từ là 1,67%/ 1 tháng.
Mà theo quy định tại Điều 201 trong Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi bởi điểm i khoản 2 Điều 2 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017) quy định về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự cụ thể:
– Người nào trong giao dịch dân sự cho vay với lãi suất gấp 05 lần trở lên so với mức lãi suất cao nhất quy định trong Bộ luật dân sự, và hưởng lợi bất chính tùy vào số tiền và mức độ nghiêm trọng mà có thể chịu hình phạt hành chính cao nhất đến 1 tỷ đồng và bị phạt tù cao nhất đến 03 năm. Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định trong từ 01 đến 05 năm.
Hiện nay theo quy định thì mức lãi suất cao nhất được chấp nhận là 20%/ năm, người nào cho vay với lãi suất gấp 05 trở lên tức là 100%/ năm hay 8,31%/ tháng thì được coi là cho vay nặng lãi. Chẳng hạn: Một người cho người khác vay 1 triệu đồng với lãi suất 100%/ năm tức là 8,3% 1 tháng. Vậy mỗi tháng người vay phải trả lãi cho người cho vay là 83 nghìn tức 1 năm sau họ phải trả cả gốc lẫn lời là 1.996.000 đồng.Mà theo như lãi suất cao nhất quy định là 1,67%/ tháng tức mỗi tháng tiền lãi là 16.7000 đồng và sau 1 năm số tiền tổng phải trả là 1.200.400 đồng. Như vậy trong trường hợp này, người này đã cho vay nặng lãi.
Như vậy, căn cứ theo các quy định trên thì app cho vay tới 8%/ 1 tháng tức là app đã cho vay nặng lãi theo quy định của pháp luật hiện hành.
Nếu đã vô tình vay tiền trực tuyến qua ứng dụng và đã đóng lãi và gốc theo yêu cầu hoặc đang bị đe dọa, quan trọng nhất là cần báo cáo sự việc cho cơ quan công an để nhận được sự giúp đỡ. Lưu ý rằng tội này chỉ áp dụng cho cá nhân, không áp dụng cho các tổ chức kinh doanh hay pháp nhân thương mại. Điều này được cụ thể quy định tại Điều 76 trong Bộ luật Hình sự 2015, đã được sửa đổi bởi khoản 11 Điều 1 trong Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017.