Hỏi – Đáp cùng Luật Gia Phát Thành: Thẩm quyền giải quyết tranh chấp trong hoạt động thương mại?

Câu hỏi:

Xin chào luật sư! Tôi có vấn đề thắc mắc rất mong nhận được sự giải đáp như sau:

Chúng tôi có ký kết hợp đồng mua bán hạt điều với 1 doanh nghiệp tại Bình Phước mà doanh nghiệp này không thực hiện giao hàng cho chúng tôi như đã cam kết và cố tình kéo dài thời gian, cho đến hơn 2 tháng chúng tôi không nhận được hàng hóa và chúng tôi yêu cầu doanh nghiệp này trả lại 20% tiền cọc mà chúng tôi đã đặt cọc, họ cũng không trả và lọc lừa lý do, trong trường hợp của chúng tôi có thể khởi kiện doanh nghiệp này tại đâu và quy trình như thế nào?

Cám ơn luật sư!

Phúc đáp từ Luật Gia Phát Thành

Tranh chấp thương mại là tranh chấp phát sinh do việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng trong hoạt động thương mại. Tranh chấp thương mại thực chất là tranh chấp hợp đồng. Đây là các tranh chấp tài sản phát sinh trong quá trình thực hiện hoạt động thương mại và luôn thuộc quyền tự định đoạt của các bên tranh chấp.

1. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp thương mại của trọng tài:

Hiện tại, hai công ty đã phát sinh tranh chấp trong hoạt động thương mại và một bên tranh chấp là doanh nghiệp nước ngoài. Do đó, việc xác định nơi khởi kiện được thực hiện như sau:

Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, tranh chấp được giải quyết tại Trọng tài thương mại khi hội đủ hai điều kiện sau:

Thứ nhất, tranh chấp phát sinh thuộc loại tranh chấp được giải quyết tại Trọng tài thương mại.

Theo Điều 2 Luật trọng tài thương mại 2010, tranh chấp được giải quyết tại Trọng tài thương mại, bao gồm:

  • Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại
  • Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động th­ương mại;
  • Tranh chấp khác mà pháp luật quy định đư­ợc giải quyết tại trọng tài.

Như vậy, Luật Trọng tài thương mại năm 2010 đã mở rộng thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Trọng tài thương mại, theo đó, các tranh chấp hợp đồng trong kinh doanh được giải quyết tại Trọng tài thương mại không chỉ giới hạn giữa các cá nhân, tổ chức kinh doanh với nhau như Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003. Cách tiếp cận này của Luật Trọng tài thương mại đã tương thích với quy định của pháp luật nội dung về hợp đồng trong kinh doanh (hợp đồng thương mại).

Thứ hai, tr­ước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp các bên có thoả thuận trọng tài và thỏa thuận trọng tài không vô hiệu

  • Thoả thuận trọng tài là thoả thuận giữa các bên về việc giải quyết bằng trọng tài tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh.
  • Hình thức thoả thuận trọng tài phải bằng văn bản.
  • Thoả thuận trọng tài hoàn toàn độc lập với hợp đồng. Việc thay đổi, gia hạn, hủy bỏ hợp đồng, hợp đồng vô hiệu hoặc không thể thực hiện được không làm mất hiệu lực của thoả thuận trọng tài
  • Có thỏa thuận trọng tài, nếu một bên khởi kiện tại Tòa án thì Tòa án phải từ chối thụ lí, trừ thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được.

2. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp thương mại của Tòa án:

Nếu các bên không có thỏa thuận về việc trọng tài là cơ quan giải quyết thì thẩm quyền giải quyết tranh chấp này sẽ được xác định theo các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 như sau:

Theo quy định tại Điều 30 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, các tranh chấp về kinh doanh thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án bao gồm:

  • Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
  • Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
  • Tranh chấp giữa người chưa phải là thành viên công ty nhưng có giao dịch về chuyển nhượng phần vốn góp với công ty, thành viên công ty.
  • Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty; tranh chấp giữa công ty với người quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc thành viên Hội đồng quản trị, giám đốc, tổng giám đốc trong công ty cổ phần, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, bàn giao tài sản của công ty, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty.
  • Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật.

“Điều 37. Thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh

1. Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ việc sau đây:

a) Tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các Điều 26, 28, 30 và 32 của Bộ luật này, trừ những tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện quy định tại khoản 1 và khoản 4 Điều 35 của Bộ luật này;

b) Yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các Điều 27, 29, 31 và 33 của Bộ luật này, trừ những yêu cầu thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện quy định tại khoản 2 và khoản 4 Điều 35 của Bộ luật này;

c) Tranh chấp, yêu cầu quy định tại khoản 3 Điều 35 của Bộ luật này.

2. Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện quy định tại Điều 35 của Bộ luật này mà Tòa án nhân dân cấp tỉnh tự mình lấy lên để giải quyết khi xét thấy cần thiết hoặc theo đề nghị của Tòa án nhân dân cấp huyện.”

“Điều 39. Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ

1. Thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Tòa án theo lãnh thổ được xác định như sau:

a) Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các Điều 26, 28, 30 và 32 của Bộ luật này;

b) Các đương sự có quyền tự thỏa thuận với nhau bằng văn bản yêu cầu Tòa án nơi cư trú, làm việc của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cá nhân hoặc nơi có trụ sở của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cơ quan, tổ chức giải quyết những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các điều 26, 28, 30 và 32 của Bộ luật này;

c) Đối tượng tranh chấp là bất động sản thì chỉ Tòa án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết.

Như vậy khi phát sinh trong chấp trong lĩnh vực thương mại, nếu các bên có thỏa thuận Trọng atfi là cơ quan giải quyết thì tranh chấp sẽ được giải quyết tại Trọng tài thương mại, nếu các bên không có thỏa thuận trọng tài thì tranh chấp sẽ được giải quyết tại Tòa án có thẩm quyền.

3. Ưu và nhược điểm của phương án giải quyết tranh chấp bằng trọng tài:

3.1 Ưu điểm

– Khác với tòa án là có hai cấp xét xử thông thường là sơ thẩm và phúc thẩm, ngoài ra Tòa án có xét xử đặc biệt là giám đốc thẩm và tái thẩm; thì trọng tài chỉ có một cấp xét xử. Do đó, quyết định của trọng tài là chung thẩm. Quyết định này có giá trị bắt buộc thi hành đối với các bên; các bên không thể kháng cáo hay kháng nghị  như xét xử tại Tòa án.

– Xét xử theo phương thức trọng tài là do các bên thỏa thuận lựa chọn và đứng đầu phiên xử là Hội đồng trọng tài xét xử vụ việc. Hội đồng trọng tài xét xử vụ việc là do các bên thỏa thuận lựa chọn; hoặc được chỉ định để giải quyết vụ kiện. Vì vậy, trọng tài có thể theo dõi cuộc tranh chấp từ đầu đến cuối, có thể xâu chuỗi mọi sự kiện và đưa ra cách giải quyết tốt nhất. Các bên có thể thoải mái hòa giải mà không bị gò bó như xét xử tại Tòa án.

–  Xét xử theo phương thức trọng tài cũng là hình thức xét xử kín, nhằm đảm bảo thông tin của các bên, không phải xét xử công khai. Các bên vẫn có thể thực hiện giao dịch mà không lộ thông tin kinh doanh ra ngoài, làm ảnh hưởng đến uy tín của công ty. Việc xét xử bằng trọng tài đảm bảo được bí mật cao; tránh cho các bên nguy cơ làm tổn thương các mối quan hệ hợp tác làm ăn vốn có.

– Các bên có quyền tự do thỏa thuận lựa chọn một trọng tài dựa trên trình độ, năng lực; sự hiểu biết vững vàng của họ về thương mại quốc tế, về các lĩnh vực chuyên biệt.

– Hoạt động trọng tài xét xử liên tục do đó tiết kiệm thời gian; chi phí, tiền bạc cho doanh nghiệp; giải quyết bằng trọng tài thể hiện tính năng động, linh hoạt, mềm dẻo.au.

Hiện nay, việc áp dụng giải quyết bằng trọng tài thương mại cũng ngày một phát triển hơn.

3.2 Nhược điểm

Bên cạnh những ưu điểm, phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại cũng có những khó khăn, trở ngại khó tránh khỏi đó là:

– Vì đẩy cao tính hợp tác và tự hòa giải của các bên nên kết quả của cuộc giải quyết phụ thuộc vào thái độ; thiện chí của các bên tranh chấp. Nếu các bên quá cứng nhắc thì rất khó để làm việc và dẫn đến đưa ra Tòa để giải quyết.

– Đa phần doanh nghiệp hiện nay chưa thực sự quan tâm đến việc sẽ giải quyết các tranh chấp phát sinh bằng hình thức trọng tài.

– Khi có quyết định trọng tài, việc thực thi quyết định lại phụ thuộc vào thiện chí và sự hợp tác của các bên vì tính cưỡng chế ở đây kém.

– Trọng tài có thể gặp khó khăn trong quá trình giải quyết tranh chấp; đặc biệt là những tranh chấp phức tạp; về những vấn đề như: xác minh thu thập chứng cứ, triệu tập nhân chứng… Do trọng tài không có bộ máy giúp việc và có cơ quan thi hành; cưỡng chế như Tòa án nên có rất nhiều trường hợp; Trọng tài khó lấy được thông tin cá nhân nếu như bên đó không hợp tác.

– Ngoài ra, phán quyết của trọng tài có thể bị yêu cầu tòa án xem xét lại. Phán quyết trọng tài có thể bị hủy khi có đơn yêu cầu của một bên. Đây chính là lý do lớn nhất cho việc giải quyết bằng trọng tài ít được lựa chọn để giải quyết các tranh chấp.

Quý khách hàng có nhu cầu tư vấn chuyên sâu cũng như hỗ trợ các thủ tục doanh nghiệp, kinh doanh vui lòng liên hệ Luật Gia Phát Thành để được hỗ trợ chi tiết.

Hotline của chúng tôi: 0976.852.595

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *